Vùng nguyên liệu chè tỉnh Yên Bái
Chè xanh chứa các hợp chất có tác dụng lợi tiểu, giúp máu lưu thông trong cơ thể được tốt hơn, từ đó có tác dụng ngăn chặn xơ vữa động mạch - nguy cơ dẫn đến các bệnh tim mạch. Hơn thế, chè xanh còn có tác dụng chống ôxy hóa, kéo dài tuổi thọ và làm cho làn da nhuận sắc hơn. Với những tác dụng tôt cho sức khỏe như vậy nên những năm gần đầy nhu cầu sử dung chè xanh đã tăng lên đáng kể (đặc biệt các nước thuộc Châu Á).
Hiện tại, Việt Nam đã xuất khẩu chè tới 118 quốc gia và vùng lãnh thổ, là nước xuất khẩu Chè đứng thứ 5 thế giới, sau Kenya, Ấn Độ, Trung Quốc và Sri Lanka. Diện tích trồng chè cả nước hiện đạt 124.000ha. Sản lượng chè năm 2018 đạt 200.000 tấn trong đó 160.000 tấn (chiếm 76%) dành cho xuất khẩu đạt kim ngạch 243 triệu USD. Thị trường xuất khẩu chủ yếu của chè Việt là Pakistan, Đài Loan, Indonesia, Nga, Trung Quốc, Afghanistan, Mỹ, Iran, Ba Lan và Malaysia.
Yên Bái là tỉnh có diện tích trồng chè lớn thứ hai cả nước. Theo thống kê, toàn tỉnh hiện có hơn 7.800 ha chè, trong đó có hơn 2.296 ha chè Shan, trên 2.668 ha chè lai LDP, 1.551 ha chè nhập nội, 1.285 ha chè trung du....Vùng chè tập trung có diện tích lớn nhất là các huyện Văn Chấn ,Trấn Yên và Yên Bình. Năng suất chè búp tươi năm 2018 đạt bình quân 10,1 tấn/ha. Sản lượng chè búp tươi đạt từ 75.000 tấn/năm. Tổng sản lượng chè khô đạt 27.000 tấn chè khô gồm chè đen, chè xanh các loại.
Toàn tỉnh hiện có trên 115 cơ sở chế biến với công suất chế biến 1.171 tấn búp tươi/ngày; đang hoạt động 64 cơ sở. Về công nghệ chế biến: trên địa bàn có 04 dây chuyền nhập khẩu đồng bộ sản xuất chè đen theo công nghệ CTC của Ấn Độ,còn lại các doanh nghiệp vẫn chủ yếu chè đen OTHDOX trên cơ sở thiết bị công nghệ cũ của Liên Xô có cải tạo phần thiết bị (một số cơ sở như Công ty CP Chè Nghĩa Lộ, Công ty CP Chè Trần Phú, doanh nghiệp chế biến chè Bình Thuận có mua thêm thiết bị tách cẫng..); công nghệ chế biến chè xanh chủ yếu vẫn sản xuất thủ công là chính, hai đơn vị liên doanh với nước ngoài đầu tư thiết bị ở mức trung bình. Nhìn chung công nghệ thiết bị của ngành chế biến chè trên địa bàn tỉnh hiện tại mới ở mức trung bình.
Do nhiều cơ sở chế biến xây dựng không theo quy hoạch vì vậy nguyên liệu chè búp tươi mới chỉ đáp ứng 50% nhu cầu của các cơ sở chế biến.
Vào vụ Chè năm nay, đã có không ít khó khăn cho các doanh nghiệp chế biến chè trên địa bàn Tỉnh. Lượng chè búp tươi chưa nhiều nên các doanh nghiệp sản xuất lớn chưa có đủ nguồn nguyên liệu ổn định để sản xuất. Giá nguyên liệu chè búp tươi trung bình từ 3.000 – 3.500đ/kg. Đem lại cho người dân thêm thu nhập và tạo lòng tin cho những cơ sở chế biến. Sản lượng chè búp tươi 5 tháng đầu năm 2019 đạt 7.290 tấn tăng 6,49% so với cùng kỳ.
Trên địa bàn tỉnh hiện tượng pha trộn thêm nhiều phụ gia không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm như bột ngô, bột sắn và cả bột đất, đá, cao lanh vào chè để búp chè đẹp và nặng hơn, tăng lợi nhuận của một bộ phận sản xuất chè nhỏ lẻ đã không còn.
Về lâu dài để khai thác, phát huy tiềm năng thế mạnh ngành chè Yên Bái, Tỉnh ủy Yên Bái đã có Kết luận số 11-KL/TU ngày 11 tháng 4 năm 2012 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 04 tháng 4 năm 2006 của Ban thường vụ Tỉnh ủy khoa XVI về “ Phát triển, nâng cao chất lượng sản xuất, chế biến, kinh doanh chè đến năm 2010”. Thực hiện Kết luận 11 Tỉnh đang khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng mới các nhà máy chế biến chè với công nghệ tiên tiến như dây chuyền sản xuất chè đen theo công nghệ CTC, dây chuyền sản xuất chè xanh chất lượng cao, dây chuyền tinh chế và đấu trộn chè thành phẩm, chế biến chè nhúng, chè hòa tan, chè thảo mộc...Đối với các doanh nghiệp đầu tư vào Yên Bái ngoài cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ, tỉnh Yên Bái sẽ có những chính sách ưu đãi như hỗ trợ giải phóng mặt bằng, hỗ trợ xúc tiến thương mại, lãi suất sau đầu tư và các hoạt động xúc tiến đầu tư…tạo điều kiện tốt nhất cho công nghiệp sản xuất chế biến chè.
Để sản xuất, kinh doanh chè hiệu quả, người làm chè sống được bằng chè,. Người dân, doanh nghiệp cần hướng đến sản xuất chè sạch, chè an toàn, thay đổi cách làm chè bằng kinh nghiệm truyền thống sang ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; ngành nông nghiệp, các huyện, thị phải thường xuyên mở các lớp tập huấn kỹ thuật cho người dân, doanh nghiệp về sản xuất, chế biến chè an toàn, chè sạch. Tăng cường công tác quản lý, rà soát các đơn vị chế biến trên địa bàn.
Tỉnh cũng cần có cơ chế, chính sách thu hút đầu tư riêng trong sản xuất chế biến chè, nhất là trong chế biến chè sạch, chè an toàn, chè tinh. Đem lại hiệu quả kinh tế cao góp phần nâng cao đời sống, thu nhập ổn định cho người dân làm Chè./.
Nguồn: Phòng QLCN&NL