I. ĐÁNH GIÁ XUẤT NHẬP KHẨU GIAI ĐOẠN 2011-2015
1. Thành tựu
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015, hoạt động xuất khẩu trong 5 năm 2011-2015 đã đạt những kết quả đáng khích lệ với điểm nổi bật là tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao đi liền với kiềm chế có hiệu quả nhập siêu.
Kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 tăng bình quân 17,5%/năm, cao hơn 5,5% so với chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra tại Chiến lược Xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030 là 12%/năm.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có chuyển dịch theo chiều hướng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến tăng nhanh, phù hợp với lộ trình thực hiện mục tiêu của Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030. Các mặt hàng chủ lực có quy mô xuất khẩu lớn như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, máy móc thiết bị phụ tùng tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng ổn định, đồng thời đã phát triển thêm nhiều mặt hàng xuất khẩu mới thuộc nhóm công nghệ như điện thoại di động, máy vi tính, thiết bị điện tử.
Thị trường xuất khẩu được mở rộng, phát triển mạnh theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ. Năm 2010 có 18 thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD thì đến năm 2015 đã tăng lên 29 thị trường.
Đạt được những kết quả trên, bên cạnh nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng, sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ, ngành còn có đóng góp tích cực của các Thương vụ, các Đại sứ quán Việt Nam tại nước ngoài. Các Thương vụ đã đóng vai trò cầu nối, không chỉ phát triển hợp tác về thương mại và công nghiệp giữa các cơ quan Chính phủ mà còn là đại diện của các doanh nghiệp, hỗ trợ và cùng các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào từng thị trường, giải quyết các tranh chấp, cảnh báo các rủi ro, giúp doanh nghiệp yên tâm khi kinh doanh tại thị trường sở tại.
2. Hạn chế
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động xuất nhập khẩu giai đoạn 2011-2015 vẫn còn một số tồn tại cần được giải quyết một cách đồng bộ và có hiệu quả. Cụ thể là:
- Mặc dù tỷ lệ hàng đã qua chế biến đã bước đầu được cải thiện, tuy nhiên, đa số các mặt hàng nông sản, khoáng sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng thô hoặc sơ chế, cho giá trị gia tăng thấp. Nhiều ngành hàng xuất khẩu chủ lực vẫn còn mang tính gia công và còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
- Xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng dễ bị tổn thương trước biến động từ bên ngoài như giá cả thị trường thế giới, sự xuất hiện rào cản thương mại mới, việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại của các nước nhập khẩu.
- Năng lực cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu chưa cao. Công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển, tỷ lệ nhập khẩu nguyên phụ liệu còn lớn nên thường gặp bất lợi mỗi khi giá cả thế giới biến động tăng, làm tăng chi phí sản xuất trong nước, giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
Bước sang năm 2016, là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm kinh tế-xã hội 2016-2020, dự báo hoạt động xuất nhập khẩu trong giai đoạn 5 năm này đón nhận nhiều cơ hội nhưng cũng đi kèm nhiều khó khăn, thách thức.
Trong nước, công tác cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng suất chất lượng, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất kinh doanh dự báo tiếp tục được triển khai sâu rộng, tạo nhiều thuận lợi cho hoạt động đầu tư sản xuất, xuất khẩu.
Các Hiệp định Thương mại tự do FTA mới, đặc biệt là các Hiệp định TPP và Hiệp định FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu hứa hẹn mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và có tác động tích cực và quan trọng đối với tăng trưởng xuất khẩu.
Các FTA cũng sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần đẩy nhanh quá trình nội địa hóa, nâng cao giá trị gia tăng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, thực tế cũng chỉ ra một số khó khăn, thách thức là:
- Cùng với việc các nước mở cửa thị trường cho hàng hóa của Việt Nam thì Việt Nam cũng phải cam kết mở cửa thị trường cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước. Điều này có thể mang đến sức ép cạnh tranh cho hàng hóa sản xuất trong nước.
- Rào cản kỹ thuật và các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng được áp dụng phổ biến nhằm bảo vệ sản xuất trong nước, đặc biệt trong bối cảnh thuế nhập khẩu được xóa bỏ trong các hiệp định FTA. Các nước phát triển ngày càng áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật, kiểm soát hàng nhập khẩu, nhất là đối với hàng nông thủy sản. Do vậy, các sản phẩm nông sản của ta dù được hưởng thuế ưu đãi vẫn có thể gặp khó khăn về khả năng tiếp cận thị trường do không đáp ứng được tiêu chuẩn về dư lượng kháng sinh, dư lượng thuốc trừ sâu, v.v... Số vụ điều tra và áp dụng thuế chống bán giá và chống trợ cấp đối với hàng Việt Nam ngày càng nhiều sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam và hạn chế khả năng tận dụng các FTA.
- Hiện một số mặt hàng nông, thủy sản xuất khẩu chủ lực bị giới hạn về khả năng mở rộng nuôi trồng, khó có khả năng duy trì tăng trưởng cao về mặt số lượng. Trong khi đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt vị trí cao trên thế giới nhưng vẫn chưa có khả năng điều tiết giá cả thị trường, dẫn đến tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu phụ thuộc vào diễn biến giá thế giới.
III. NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1. Nhiệm vụ và giải pháp chung
Một là, Phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng cho xuất khẩu
Rà soát, điều chỉnh các chính sách về thu hút đầu tư nhằm thu hút mạnh đầu tư trong nước và ngoài nước vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, khuyến khích việc đầu tư sản xuất hàng hóa có giá trị gia tăng, hàm lượng công nghệ cao và hàng hóa thay thế nhập khẩu. Định hướng phát triển sản xuất cụ thể cho từng nhóm hàng như sau:
- Nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản (là nhóm hàng có lợi thế về tài nguyên nhưng bị giới hạn nguồn cung): Có lộ trình giảm dần xuất khẩu khoáng sản thô; đầu tư công nghệ để tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, tận dụng các cơ hội thuận lợi về thị trường và giá cả để tăng giá trị xuất khẩu.
- Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản (là nhóm hàng có lợi thế và năng lực cạnh tranh dài hạn nhưng giá trị gia tăng còn thấp): Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu có ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến.
- Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo (là nhóm hàng có tiềm năng phát triển và thị trường thế giới có nhu cầu): Phát triển sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ giá trị trong nước, giảm phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Tiếp tục đổi mới công nghệ các ngành sản xuất có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn như cơ khí, đồ gỗ, dệt may, da giày; phát triển các mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng, có tốc độ tăng trưởng và giá trị gia tăng cao, như vật liệu xây dựng, sản phẩm hóa dầu, sản phẩm cao su, sản phẩm công nghệ cao.
Mặc dù các đối tác EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu ngay khi FTA có hiệu lực nhưng nếu hàng xuất khẩu của Việt Nam không thể đáp ứng được tiêu chí xuất xứ thì cũng không được hưởng những ưu đãi về thuế quan đó. Để đáp ứng yêu cầu quy tắc xuất xứ trong các FTA, Việt Nam cần phát triển nhanh công nghiệp phụ trợ nhằm tăng hàm lượng nội địa và giá trị gia tăng cho hàng xuất khẩu.
Hai là, phát triển thị trường, tận dụng các Hiệp định FTA
Tổ chức hiệu quả, đồng bộ hoạt động thông tin, dự báo tình hình thị trường hàng hoá trong nước và thế giới, luật pháp, chính sách và tập quán buôn bán của các thị trường để giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, thâm nhập thị trường hiệu quả.
Tăng cường công tác xúc tiến thương mại: Thời gian qua, hoạt động xúc tiến thương mại được quan tâm, chú trọng và có đóng góp tích cực trong công tác phát triển thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, nguồn kinh phí cho hoạt động này thời gian qua tăng không nhiều trong khi nhu cầu xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường ngày một tăng, đặc biệt trong bối cảnh các FTA đang mở ra những cơ hội lớn về khả năng tiếp cận thị trường.
Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến để các doanh nghiệp tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi về tiếp cận thị trường và cắt giảm thuế quan của các đối tác để đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu.
Xây dựng phương án cảnh báo sớm, chủ động phòng tránh và giải quyết có hiệu quả các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp đối với hàng xuất khẩu, nâng cao nhận thức về phòng vệ thương mại của các Hiệp hội, doanh nghiệp.
Ba là, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu
Tập trung nguồn lực đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã và đa dạng sản phẩm, nâng cao chất lượng, tạo sản phẩm có chất lượng quốc tế, hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời chú trọng sản xuất các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu trong nước.
Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Nâng cao hàm lượng khoa học công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu, chất lượng và thương hiệu sản phẩm xuất khẩu, từng bước tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Cải thiện môi trường kinh doanh, phát triển dịch vụ logistics, nâng cao năng lực của các hiệp hội ngành hàng, của doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu.
2. Nhiệm vụ và giải pháp cho các Thương vụ
Để góp phần phát triển xuất khẩu trong thời gian tới, đề nghị các đồng chí Tham tán Công sứ, Tham tán, Trưởng đại diện các văn phòng xúc tiến thương mại cần triển khai một số nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất là, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư
Đổi mới, đa dạng hóa các hình thức xúc tiến thương mại tại địa bàn, kết hợp xúc tiến thương mại với các hình thức xúc tiến đầu tư, du lịch, văn hóa, thể thao. Tạo đột phá mạnh mẽ trong công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt tập trung vào các hoạt động xúc tiến thương mại cấp quốc gia và xây dựng thương hiệu quốc gia cho một số mặt hàng nông sản.
Chú trọng xúc tiến đầu tư nước ngoài vào sản xuất hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa thay thế nhập khẩu giúp tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, khai thác các lợi thế mà các FTA mang lại.
Tranh thủ sự hỗ trợ của các cơ quan Đại sứ quán, Tổng lãnh sự quán, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, chính quyền và doanh nghiệp nước sở tại, từ đó vận dụng, sáng tạo các hình thức hỗ trợ doanh nghiệp phù hợp với địa bàn.
- Thứ hai là, khai thác các lợi thế của các thị trường có hiệp định thương mại tự do
Theo dõi tình hình thực thi các cam kết theo các Hiệp định Thương mại tự do của nước sở tại và các thay đổi về cơ chế, chính sách của nước sở tại.
Xây dựng kế hoạch tiếp cận thị trường, khai thác các lợi thế của các thị trường có Hiệp định Thương mại tự do. Từ đó đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến về các Hiệp định Thương mại tự do để doanh nghiệp tận dụng lợi ích, nhận biết hạn chế, có biện pháp ứng phó phù hợp với thách thức và rủi ro.
- Thứ ba là, tăng cường công tác thông tin thị trường
Đẩy mạnh công tác cung cấp thông tin về ngành hàng, thị trường và các vấn đề nổi bật tại từng thị trường, các vướng mắc, kinh nghiệm xử lý các vướng mắc ở từng thị trường. Các đơn vị của Bộ Công Thương và các Thương vụ chủ động cung cấp đến doanh nghiệp và đẩy mạnh quảng bá về các cơ sở dữ liệu, thông tin đã có để doanh nghiệp tiếp cận, phục vụ công tác nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp.
Bên cạnh quan hệ với các đơn vị của Bộ Công Thương, các Thương vụ cần kiến tạo mối liên kết trực tiếp, chặt chẽ hơn nữa với các Bộ, ngành, địa phương, Hiệp hội và doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu thông tin kịp thời, hiệu quả với các cơ quan và doanh nghiệp sở tại.
Thưa các đồng chí,
Dưới sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong những năm qua ngành Công Thương và Bộ Công Thương đã đạt được một số kết quả, thành tựu, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội chung của cả nước.
Trong năm 2016 và những năm tới, cán bộ, công chức, viên chức Bộ Công Thương, trong đó có các đồng chí Tham tán Công sứ, Tham tán, Trưởng đại diện các văn phòng xúc tiến thương mại và các cán bộ Thương vụ, tiếp tục phấn đấu đổi mới toàn diện phương thức hoạt động, quyết liệt và bám sát thực tiễn cuộc sống, tích cực hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp để đạt kết quả nâng cao sản lượng sản xuất các sản phẩm công nghiệp, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao chất lượng xuất khẩu và quản lý tốt nhập khẩu, phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xin trân trọng cám ơn các đồng chí.