CôngThương - Nằm ở Đông Nam Á, sau khi giành độc lập năm 1957 Malaysia là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu. Những năm 1970, Malaysia thực hiện chính sách hướng Tây nhằm tranh thủ nguồn vốn và kỹ thuật.
Đến đầu những năm 1980, Malaysia chuyển sang chính sách hướng Đông, chủ yếu tăng cường quan hệ với Nhật Bản và một số nước NIC, nhằm học tập và tranh thủ vốn và kinh nghiệm để hiện đại hóa đất nước.
Những năm gần đây, trong khi vẫn tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật và đầu tư của các nước phương Tây và các nước NIC, Malaysia đã thực hiện chính sách hướng Nam, tăng cường hợp tác với các nước đang phát triển để mở rộng thị trường.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Malaysia trong giai đoạn từ 1970-1996 liên tục tăng và ở mức cao bình quân 6,7%/năm; cao nhất là năm 1990, đạt 9,8 %. Trong hai năm 1997 và 1998, kinh tế Malaysia rơi vào khủng hoảng khá trầm trọng. Năm 1998, GDP là - 6,7%, đồng ring-gít mất giá 65%. Tuy nhiên, nhờ có biện pháp khắc phục khủng hoảng đúng đắn, trong đó có việc ấn định tỷ giá và kiểm soát vốn, nền kinh tế Malaysia từ đầu năm 1999 đến nay đã phục hồi khá nhanh.
Năm 2010, Chính phủ Malaysia đã thành công trong nỗ lực vực dậy nền kinh tế khi nhanh chóng chuyển hướng thị trường xuất khẩu từ các nước thị trường truyền thống như EU, Bắc Mỹ sang thị trường châu Á, Trung Đông và đưa ra hai gói kích cầu trị giá khoảng 18 tỷ USD. Nhờ đó, kinh tế Malaysia đã hồi phục và tăng trưởng cao; đạt 7,2% năm 2010 và 5,1% năm 2011.
Năm 2012, mặc dù kinh tế thế giới còn nhiều thách thức, Malaysia vẫn duy trì mức tăng trưởng chắc chắn; GDP đạt 5,1%. Chính phủ của Thủ tướng Dato'Seri Mohd Najah Haminah Binti Haji Hamidun đang đẩy mạnh thực hiện “Mô hình kinh tế mới” (NEM) nhằm đưa Malaysia trở thành nước có thu nhập trung bình trên đầu người tăng gấp đôi là 15.000 USD vào năm 2020.
Chính sách đối ngoại của Malaysia là nhằm thúc đẩy quan hệ hữu nghị vững chắc với các nước Đông Nam Á, thiết lập môi trường ổn định và hòa bình trong khu vực, đảm bảo và phát huy lợi ích kinh tế quốc tế của Malaysia thông qua việc thắt chặt quan hệ trực tiếp với các nước khác hoặc thông qua các diễn đàn đa phương, tăng cường hợp tác kinh tế với các nước đang phát triển thông qua sự ủng hộ mạnh mẽ và thúc đẩy quan hệ Nam-Nam.
Ngày 30/3/1973, Việt Nam và Malaysia thiết lập quan hệ ngoại giao. Quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước đang phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực. Hai bên duy trì các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao, gần đây nhất là chuyến thăm cấp Nhà nước tới Malaysia của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (9/2011) và Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan dự Hội nghị Thượng đỉnh Toàn cầu tại Malaysia (6/2013).
Malaysia là đối tác thương mại lớn thứ 9 của Việt Nam; kim ngạch thương mại hai chiều năm 2012 đạt gần 7,9 tỷ USD, trong 5 tháng đầu năm 2013 đạt 3,6 tỷ USD. Hiện Malaysia có 448 dự án với tổng vốn đăng ký là 10,2 tỷ USD, đứng thứ 8 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam có 9 dự án đầu tư tại Malaysia với tổng vốn đầu tư 813 triệu USD.
Hai nước cũng đã ký bản ghi nhớ về hợp tác giáo dục trong chuyến thăm chính thức Malaysia của Thủ tướng Phan Văn Khải (4/2004). Hằng năm Malaysia cấp học bổng đại học và cao học cho sinh viên Việt Nam, bao gồm học bổng Chính phủ và học bổng do các tập đoàn kinh tế lớn của Malaysia.
Trong lĩnh vực hợp tác lao động, Chính phủ Malaysia chính thức mở cửa thị trường lao động cho Việt Nam từ năm 2002 và nhất trí đưa vấn đề lao động thành một lĩnh vực hợp tác mới giữa hai nước. Hai nước đã ký Thỏa thuận cấp Chính phủ về hợp tác lao động. Hiện có khoảng 80.000 lao động Việt Nam đang làm ăn sinh sống tại Malaysia.
Từ năm 1991, Công ty dầu khí Petro Vienam và Petronas Malaysia đã có quan hệ hợp tác. Hai bên đã triển khai 10 dự án hợp tác tại Việt Nam với tổng trữ lượng khoảng 72.000 thùng dầu/ngày. Ngoài ra hai nước còn hợp tác trên các lĩnh vực dịch vụ, chế biến, thăm dò và tìm kiếm dầu khí...
Thời gian qua, hai nước cũng đã ký kết các hiệp định và thỏa thuận hợp tác như: Hiệp định về miễn thị thực cho người mang hộ chiếu phổ thông (9/2001). Kể từ khi hai nước miễn thị thực cho công dân mang hộ chiếu phổ thông, lượng du khách Malaysia đến Việt Nam tăng nhanh (năm 2006 là 106.000 lượt người, năm 2011 đạt 211.000 lượt người); Tuyên bố chung về Khuôn khổ Hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21 giữa Việt Nam và Malaysia (2004); Thỏa thuận hợp tác phòng chống tham nhũng giữa Thanh tra Chính phủ Việt Nam và Ủy ban chống tham nhũng Malaysia (2010). Ngoài ra hai nước còn ký một số bản ghi nhớ về hợp tác giáo dục, quốc phòng, ngân hàng, công nghệ thông tin và truyền thông ...
Hai nước có truyền thống hợp tác tốt tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, nhất là trong khuôn khổ ASEAN và Liên hợp quốc. Hai nước đang phối hợp tổ chức nhiều hoạt động thiết thực kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1973-2013).
Chuyến thăm lần này của Quốc vương Malaysia tới Việt Nam thể hiện sự coi trọng mối quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước; đánh dấu 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi một số phương hướng lớn của quan hệ hai nước trong thời gian tới; thúc đẩy hợp tác song phương giữa Việt Nam và Malaysia, đặc biệt trong các lĩnh vực then chốt như kinh tế, thương mại, lao động, hướng tới xây dựng Đối tác chiến lược.
Theo Báo CTĐT