Về quy mô và tốc độ tăng:
Báo cáo của Bộ Công Thương cho biết tháng 4, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) ước đạt 12,2 tỷ USD, giảm 0,6% so với tháng 3 và tăng 23,2% so với tháng 4 năm 2013, trong đó: xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 7,5 tỷ USD, giảm 0,1% so với tháng 3 và tăng 24,2% so với tháng 4 năm 2013.
Tính chung 4 tháng năm 2014 ước đạt 45,74 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm 2013 (tương đương với tăng 6,61 tỷ USD), trong đó KNXK của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước ước đạt 15,38 tỷ USD, chiếm 33,6% tổng KNXK của cả nước, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm ngoái; KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) ước đạt 30,35 tỷ USD, chiếm 66,4% tổng KNXK của cả nước, tăng 17,2%, nếu không kể dầu thô KNXK của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt gần 28,24 tỷ USD tăng 20,1% so với cùng kỳ năm 2013.
Về kim ngạch xuất khẩu
- Nhóm hàng nông lâm thủy sản: 4 tháng năm 2014 xuất khẩu ước đạt 7,0 tỷ USD, chiếm 15,4% trong tổng KNXK, tăng 14,0% so với cùng kỳ năm 2013 (tương đương với tăng 865 triệu USD). So với cùng kỳ, giá bình quân xuất khẩu của các mặt hàng cà phê, cao su, sắn và sản phẩm từ sắn suy giảm (cao su giảm đến 24,9%), giá những mặt hàng khác tăng nhẹ. Bên cạnh đó, lượng của các mặt hàng chè các loại, gạo, sắn và sản phẩm từ sắn, cao su giảm (giảm từ 3,7% đến gần 16,0%), các mặt hàng nhân điều tăng 15,3%; cà phê tăng 39,1%; hạt tiêu tăng 36,3%.
- Nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản: 4 tháng năm 2014 ước đạt 2,9 tỷ USD, chiếm gần 6,4% trong tổng KNXK, giảm 10,5% so với cùng kỳ năm 2013, tương đương với giảm 341 triệu USD. Duy nhất trong nhóm có lượng xăng dầu tăng 6,4%, còn lại lượng xuất khẩu các mặt hàng khác đều giảm. Giá bình quân xuất khẩu của tất cả các mặt hàng của nhóm đều tăng, ngoại trừ quặng và khoáng sản khác tăng 89,6%, các mặt hàng khác có giá bình quân tăng nhẹ từ 0,1% đến 6,4%.
- Nhóm hàng công nghiệp chế biến 4 tháng năm 2014 ước đạt hơn 33,0 tỷ USD, chiếm 72,3% trong tổng KNXK, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2013, tương đương với tăng gần 5,4 tỷ USD. Ngoại trừ 2 mặt hàng: phân bón các loại; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện có kim ngạch xuất khẩu giảm, các mặt hàng còn lại đều có kim ngạch xuất khẩu tăng. Một số mặt hàng xuất khẩu có quy mô và tốc độ tăng cao là nhân tố chính đóng góp vào gia tăng kim ngạch xuất khẩu của nhóm như: gỗ và sản phẩm gỗ tăng 22,4%, hàng dệt và may mặc tăng 20,0%, giày, dép các loại tăng 21,9%, điện thoại các loại và linh kiện tăng 29,2%, phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 17,4%, máy móc, thiết bị phụ tùng tăng 15,0%.
- Nhóm hàng hóa khác: ước đạt 2,74 tỷ USD, tăng 35,3% và chiếm tỷ trọng 6,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Về giá xuất khẩu: 4 tháng năm 2014 giá bình quân xuất khẩu của một số mặt hàng tăng: như: nhân điều tăng 1,1%; chè tăng 0,7%; hạt tiêu tăng 3,7%; gạo tăng 2,1%; than đá tăng 6,4%; dầu thô tăng 0,1%; xăng dầu tăng 1,0%; quặng và khoáng sản khác tăng 89,6%; Clanhke và xi măng tăng 1,1%; xơ, sợi dệt các loại tăng 1,7%... Một số mặt hàng có giá bình quân giảm như: cà phê giảm 6,9%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 1,1%; cao su giảm 24,9%; phân bón các loại giảm 0,4%; chất dẻo các loại giảm 5,3%; sắt thép các loại giảm 9,0%...
Do ảnh hưởng của giá xuất khẩu đã làm kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản giảm khoảng 207 triệu USD; nhóm nhiên liệu, khoảng sản tăng khoảng 97 triệu USD. Tính chung 2 nhóm mặt hàng do giá xuất khẩu giảm đã làm giảm 110 triệu USD KNXK.
Về lượng xuất khẩu:
Tính chung 4 tháng năm 2014, lượng một số mặt hàng xuất khẩu tăng so với cùng kỳ, cụ thể: nhân điều tăng 15,3%; cà phê tăng 39,1%; hạt tiêu tăng 36,3%; xăng dầu các loại tăng 5,4%; Clanhke và xi măng tăng 44,2%; chất dẻo nguyên liệu tăng 13,4%; xơ, sợi các loại tăng 22,0%; sắt thép các loại tăng 19,3%... Một số mặt hàng xuất khẩu giảm như: chè các loại giảm 11,0%; gạo giảm 3,7%; sắn và các sản phẩm từ sắn giảm 16,1%; cao su giảm 14,8%; than đá giảm 30,4%; dầu thô giảm 11,0%; quặng và khoáng sản khác giảm 61,8%; phân bón các loại giảm 16,0%...
Như vậy, 4 tháng năm 2014, tính chung do tăng, giảm về giá và lượng của nhóm mặt hàng nông sản và khoáng sản là những mặt hàng tính được về giá và lượng làm KNXK tăng khoảng 523 triệu USD so với cùng kỳ.
Về thị trường xuất khẩu: 4 tháng năm 2014, xuất khẩu sang hầu hết các khu vực thị trường đều tăng (trừ một số nước Tây Âu, Đông Âu và Bắc Âu giảm 7,5%). Thị trường Châu Á ước tăng 13,6%, trong đó khu vực các nước Đông Á tăng cao nhất (tăng 20,0%), tiếp đó là thị trường các nước Tây Á (tăng 12,3%), Đông Nam Á (tăng 3,3%) và Trung Nam Á (tăng 1,8%). Thị trường Châu Âu tăng 12,1%, trong đó, hầu hết các nước có KNXK tăng trưởng khá (Ailen tăng 9,1%, Bỉ tăng 57,3%, Đan Mạch tăng 8,4%, Italia tăng 26,9%, Pháp tăng 18,8%, Tây Ban Nha tăng 23,9%, Thụy Điển tăng 9,3%, Cộng hòa Séc tăng 31,8%, Latvia tăng 35,2%, Ba Lan tăng 46,8%, Slovakia tăng 11,8%...), tuy nhiên, một số nước có KNXK giảm như: Anh giảm 1,7%, Bồ Đào Nha giảm 7,5%, Phần Lan giảm 5,6%. Thị trường Châu Mỹ ước tăng 27,8%, trong đó Hoa Kỳ tăng 26,8%, tăng cao nhất là Braxin tăng 49,0%. Thị trường Châu Phi ước xuất khẩu tăng 14,1%, trong đó, xuất khẩu sang một số thị trường giảm mạnh như: Ăngôla giảm 46,3%, Bờ biển Ngà giảm 66,4%.
Theo Vietrade