Năng lượng: Giá dầu tuần qua tăng mạnh nhất trong năm, nhưng tính chung trong quý 1 giảm mạnh nhất từ cuối 2015
Phiên cuối tháng, giá dầu thô biến động trái chiều trên 2 thị trường, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) trên sàn New York tăng 25 US cent so với phiên giao dịch trước lên 50,60 USD/thùng, nhưng dầu Brent trên sàn London lại giảm 13 US cent xuống 52,83 USD/thùng. Thông tin gián đoạn nguồn cung ở Libya đang hậu thuẫn giá dầu. Với mức tăng 5,5% của dầu WTI, giá mặt hàng này vừa qua tuần tăng mạnh nhất kể từ đầu năm. Tuy nhiên tính chung cả quý, giá giảm mạnh làn lượt 5,7% và 7% do thị trường vẫn bị ám ảnh bởi tình trạng dư cung khi Tổ cức các nước XK dầu mỏ (OPEC) cắt giảm sản lượng nhưng phần giảm đó lại bị lấp đầy bởi sản lượng tăng từ Mỹ.
Tháng 12/2016, OPEC và 11 quốc gia khác bao gồm Nga đã đồng ý cắt giảm sản lượng khai thác khoảng 1,8 triệu thùng/ngày. Trong đó, OPEC đăng ký cắt giảm 1,2 triệu thùng/ngày và khoảng 600.000 thùng/ngày đối với các nước ngoài OPEC.
Một số thông tin mới nhất trên thị trường dầu mỏ:
+ Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes công bố dữ liệu về số lượng giàn khoan Mỹ hàng tuần, theo đó số lượng giàn khoan Mỹ đã tăng tuần thứ 11 liên tiếp, tăng 10 giàn, nâng tổng số lên 662 giàn, gần gấp đôi so với cùng kỳ năm ngoái là 362 giàn. Nhiều chuyên gia nhận định, việc OPEC tăng cường cắt giảm sản lượng khai thác đã kích thích Mỹ tăng cường khai thác dầu và liên tục nâng số lượng giàn khoan.
+ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết lượng dầu dự trữ của nước này tăng 867.000 thùng hồi tuần trước, gần như chỉ bằng một nửa con số dự đoán. Giới phân tích dự báo kho dự trữ dầu của Mỹ sẽ vơi đi trong thời gian tới.
+ Một cuộc khảo sát của hãng tin Reuters cho thấy sản lượng của cả 13 nước thành viên OPEC đã giảm 230.000 thùng/ngày trong tháng Ba so với số liệu đã được điều chỉnh lại của tháng Hai, cho thấy khối này đã tuân thủ 95% thỏa thuận cắt giảm.
+ OPEC và các nước thành viên ngoài OPEC bày tỏ ý muốn kéo dài thời gian cam kết cắt giảm qua tháng Sáu. Bộ trưởng Dầu mỏ Iran Bijan Zanganeh ngày 28/3 cho biết OPEC và các nước sản xuất dầu khác có thể sẽ gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng đã đạt được trước đó.
+ Các phương tiện truyền thông cho biết sản xuất dầu ở các mỏ dầu phía Tây Libya đã bị ảnh hưởng bởi các phe phái vũ trang, làm giảm khoảng 1/3 sản lượng dầu của nước này. Lượng dầu cung ứng ở Libya vẫn tiếp tục bị gián đoạn do các mỏ dầu phía tây nước này bị chặn bởi các thế lực vũ trang khiến sản lượng giảm khoảng 252.000 thùng/ngày.
Kim loại quý: Gía vàng quý I tăng mạnh nhất 1 năm do bất ổn về chính trị
Phiên giao dịch cuối tháng, giá vàng tăng do những hoài nghi xung quanh kế hoạch giảm thuế, đầu tư cho cơ sở hạ tầng của ông Trump và tình hình chính trị tại châu Âu tiềm ẩn nhiều bất ổn.
Vàng giao ngay tăng 0,4% so với phiên giao dịch trước lên 1.247,4 USD/ounce, trong khi vàng giao sau tăng 0,2% lên 1.247,30 USD/ounce. Tính chung cả quý, giá tăng khoảng 8,4%, mức tăng hàng quý mạnh nhất trong một năm.
Sự thất bại của Tổng thống Mỹ Donald Trump trong việc thông qua dự luật chăm sóc sức khỏe thay thế Obamacare đã làm dấy lên những hoài nghi về khả năng thực hiện các kế hoạch chi tiêu và cắt giảm thuế như đã cam kết của ông. Các chuyên gia nhận định sự thiếu chắc chắn về kế hoạch giảm thuế và đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Tổng thống Mỹ Donald Trump và các cuộc bầu cử tại châu Âu đã thúc đẩy các nhà đầu tư tăng cường mua các tài sản an toàn như vàng.
Theo giới phân tích, những tác động từ tiến trình Brexit và cuộc bầu cử sắp tới tại châu Âu vẫn hỗ trợ các tài sản an toàn như vàng. Nhà phân tích Bernard Dahdah, thuộc Natixis, nhận định diễn biến cuộc bầu cử tại Pháp có thể tác động đến thị trường vàng. Ngày 29/3 trước Quốc hội Anh, Thủ tướng May đã tuyên bố kích hoạt Điều 50 Hiệp ước Lisbon để bắt đầu quá trình đàm phán dự kiến kéo dài 2 năm nhằm rút khỏi Liên minh châu Âu (EU) sau 44 năm sống trong "mái nhà chung". Thủ tướng May nhấn mạnh đây là quyết định "không thể thoái lui".
Hiện các nhà đầu tư chờ đợi các báo cáo về tình hình nền kinh tế Mỹ. Những bản báo cáo này sẽ giúp thị trường có thêm thông tin về lộ trình tăng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Nhiều nhà đầu tư cho rằng Fed sẽ tăng lãi suất từ 1% lên 1,25% trong cuộc họp chính sách diễn ra vào tháng Sáu tới.
Trong cuộc khảo sát về vàng mới nhất Thomson Reuters dự báo giá vàng sẽ giữ ở mức trung bình 1.259 USD/ounce trong năm nay.
Về những kim loại quý khác, giá palađi tăng mạnh 17%, đạt mức cao nhất kể từ tháng 3/2015; giá bạc cũng tăng mạnh 15%.
Kim loại cơ bản: Kỳ tăn giá dài nhất 7 năm do lãi suất thấp thu hút nhà đầu cơ
Kim loại là một trong những mặt hàng tăng giá mạnh nhất trong năm 2016, và vẫn tiếp tục tăng trong năm 2017. Chỉ số 6 kim loại cơ bản chủ chốt tăng trong quý 1 và là quý tăng thứ 5 liên tiếp, dài nhất kể từ 2010.
Các nhà đầu tư tiếp tục rót tiền vào kim loại như đồng, trong bối cảnh thiếu cung nên giá không ngừng tăng trong thời gian qua.
Giá đồng tăng 5,6% trong quý 1 sau khi tăng gần 14% trong quý trước đó; giá nhôm và chì đều tăng 16%.
Nông sản: Giá đường, cao su, đậu tương...đồng loạt giảm
Thời tiết ở Mỹ và Nam Mỹ tốt lên đang gây áp lực giảm giá lên một số loại nông sản. Giá đậu tương Mỹ kỳ hạn giao sau kết thúc quý 1 ở mức thấp nhất 5 tháng bởi dự báo diện tích trồng lượng vụ Xuân của Mỹ sẽ cao kỷ lục. Lúa mì cũng đang quanh mức thấp nhất nhiều tuần.
Với hàng hóa nhẹ, đường đang ở mức thấp nhất gần 10 tháng và tính chung cả quý I giảm 14%, là quý thứ 2 liên tiếp giảm giá với mức giảm mạnh nhất trong vòng 1 năm. Đường thô phiên cuối quý có giá 16,76 US cent/lb, trong khi đường trắng giá 477,20 USD/tấn.
Dư thừa đường niên vụ 2017/18 nay dự báo sẽ nhiều hơn so với những con số đưa ra trước đây. Thị trường lúc này đang theo dõi thời tiết ở khu Trung Nam Brazil và khả năng EL Nino sẽ phát triển và ảnh hưởng ra sao tới sản lượng của Ấn Độ.
Cao su trên sàn Tokyo kết thúc tháng ở mức giá 245 yen (2,19 USD)/kg, tính chung trong tháng 3 giảm 8%, còn quý I giảm 7%, sau khi tăng hơn 60% ở quý trước đó.
Thái Lan cho biết sẽ xuất bán nốt 107.000 tấn cao su dự trữ còn lại vào cuối tháng 5 tới.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

30/12/16

1/3/17

1/4/17

1/4 so với 31/3

1/4 so với 31/3 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

53,72

54,01

50,60

+0,25

+0,50%

Dầu Brent

USD/thùng

56,82

55,59

53,53

+0,40

+0,75%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

40.480,00

38.830,00

36.630,00

+420,00

+1,16%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,72

2,76

3,19

0,00

-0,03%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

167,39

171,41

170,30

+1,93

+1,15%

Dầu đốt

US cent/gallon

172,82

163,71

157,46

+1,41

+0,90%

Dầu khí

USD/tấn

504,75

496,75

471,00

-0,50

-0,11%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

49.610,00

48.140,00

48.040,00

+310,00

+0,65%

Vàng New York

USD/ounce

1.151,70

1.246,90

1.251,20

+3,20

+0,26%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.304,00

4.542,00

4.456,00

-4,00

-0,09%

Bạc New York

USD/ounce

15,99

18,32

18,26

+0,05

+0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

61,00

66,10

65,10

+0,10

+0,15%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

903,10

1.021,55

950,35

+1,58

+0,17%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

680,96

771,30

798,77

+2,99

+0,38%

Đồng New York

US cent/lb

250,55

271,15

265,25

-1,90

-0,71%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

5.535,50

5.973,00

5.837,50

-118,50

-1,99%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

1.693,00

1.924,00

1.962,50

-9,50

-0,48%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

2.576,00

2.825,00

2.771,00

-99,00

-3,45%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

21.125,00

19.225,00

20.175,00

+30,00

+0,15%

Ngô

US cent/bushel

352,00

373,00

364,25

+6,75

+1,89%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

408,00

443,00

426,50

+5,50

+1,31%

Lúa mạch

US cent/bushel

228,50

247,00

224,25

-3,00

-1,32%

Gạo thô

USD/cwt

9,61

9,57

9,90

+0,05

+0,51%

Đậu tương

US cent/bushel

1.004,00

1.038,00

946,00

-17,00

-1,77%

Khô đậu tương

USD/tấn

316,60

337,90

308,40

-6,50

-2,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,66

33,84

31,78

-0,23

-0,72%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

504,00

522,00

484,40

-2,80

-0,57%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.126,00

1.909,00

2.095,00

-1,00

-0,05%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

137,05

142,60

139,30

0,00

0,00%

Đường thô

US cent/lb

19,51

19,23

16,76

-0,05

-0,30%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

213,00

162,00

157,00

-3,55

-2,21%

Bông

US cent/lb

70,65

76,34

77,33

+1,10

+1,44%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

329,40

378,80

381,40

+6,00

+1,60%

Cao su TOCOM

JPY/kg

248,80

270,00

244,40

-0,60

-0,24%

Ethanol CME

USD/gallon

1,56

1,55

1,62

+0,02

+1,00%

Theo Viannet